23/05/2012 14:06 pm
I. trắc nghiệm 1. Chọn phương án đúng về họ tên đầy đủ của nhà thơ Hữu Thỉnh A. Hữu Thỉnh B. Nguyễn Hữu Thỉnh C. Lê Hữu Thỉnh D. Trần Hữu Thỉnh 2. Viết tiếp vào các chỗ chấm sau : Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh ……………., quê ở huyện ……………….., tỉnh ……… ………… Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng tăng – thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hoá, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu ……………….. 3. Bài thơ “Sang thu” được in trong tập thơ nào ? A. Từ chiến hào đến thành phố B. Mặt đường khát vọng C. Mây đầu ô D. Hoa ngày thường, chim báo bão. 4. Hương vị nào được nhà thơ cảm nhận trong bài thơ “Sang thu” A. Hương lúa B. Hương hoa C. Hương ổi D. Hương chanh 5. Có thể thay từ “phả” trong câu thơ “Phả vào trong gió se” bằng các từ “thổi”, “bay”, “Thoảng”, không ? Viết đoạn văn ngắn 5 dòng đến 10 dòng để nêu ý kiến bản thân. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………………………………………………….. 6. Điền Đ (Đúng), S (sai) vào các phương án sau : A. Từ dềnh dàng có ý nghĩa là cố ý chậm lại mang giá trị tạo hình rất rõ thể hiện thời điểm thu sang ? B. Từ dềnh dàng có ý nghĩa là cố ý chậm lại mang giá trị tạo hình rất rõ thể hiện vẻ đẹp của mùa thu. 7. Tác giả cảm nhận thu sang ở khổ thơ 1 bằng các giác quan nào ? A. Thị giác B. Khứu giác C. Xúc giác D. Cả A, B, C 8. Chép tiếp các câu thơ sau cho hoàn chỉnh. Sương được lúc ……….. Chim bắt đầu …………… Có đám mây…………… Vắt nửa mình………… 9. Nghệ thuật chủ yếu của khổ thơ thứ 2 bài Sang thu là : A. Hoán dụ B. ẩn dụ C. So sánh D. Thậm xưng 10. Hình ảnh trong hai câu thơ đầu khổ thứ 2 bài Sang thu có trạng thái nào ? A. Ngược nhau B. Cùng tính chất C. Tuy trạng thái ngược nhau nhưng đều thể hiệnlúc thu sang 11. Hình ảnh còn lại của mùa hè trong khổ thơ cuối bài thơ Sang thu là gì ? A. Nắng B. Mưa C. Sấm D. Cả A,B,C. 12. Bài thơ “Sang thu” có mấy câu thơ nói về sự bất ngờ, ngạc nhiên trong tiết giao mùa ? A. Một câu B. Hai câu C. Ba câu D. Bốn câu 13. Hai câu thơ : Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Dùng nghệ thuật tu từ gì ? A. ẩn dụ B. So sánh C. Hoán dụ D. Chơi chữ 15. Cảm nhận tinh tế về biến chuyển thời điểm cuối hạ, đầu thu của nhà nhơ thật rõ nét ở vùng quê nào ? A. Thành thị B. Đồng bằng C. Miền núi D. Trung du II. tự luận Bức tranh thu qua cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh trong bài thơ “Sang thu” (Ngữ văn 9 - Tập 2). Đáp án I. Trắc nghiệm
Câu 8: Dềnh dàngVội vã Mùa hạ Sang thu Hương ổi Thu Hè Nắng…. Mưa Sương Sấm II. Tự luận Câu 1. Đảm bảo các ý cơ bản sau : 1. Giới thiệu khái quát về Hữu Thỉnh (quê Vĩnh Phúc – làm thơ từ cuộc kháng chiến chống Mĩ – Thơ trong sáng, giản dị). Hiện nay là tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam. 2. Cảm nhận và phát hiện vẻ đẹp khi thu sang qua các hình ảnh, sự vật. Dòng sông không ồn ào như mùa hạ. “Sông được lúc dềnh dàng” có sự nghỉ ngơi, thảnh thơi, dòng sông chảy chậm lại. Mùa thu đến những đàn chim bay đi tránh rét nên bắt đầu “vội vã”. Bầu trời thu được gợi ở hình ảnh mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Bình giảng được các từ “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”. Mùa thu về trong sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn nhạy cảm. 3. Trong quá trình bình có liên tưởng, so sánh với các bài thơ cùng đề tài mùa thu để thấy Hữu Thỉnh cảm nhận tinh tế, khoáng đạt Câu 2. Cảm nhận về bài thơ : Sang Thu 1. Giới thiệu nét chính về nhà thơ Hữu Thỉnh (xem câu 1). 2. Bài thơ được sáng tác cuối 1977 là bức tranh thiên nhiên vào lúc giao muà. a) Phân tích những hình ảnh, hiện tượng thể hiện sự biến đổi của đất trời lúc sang thu ở khổ thơ đầu của bài thơ. + Nhà thơ chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió heo may theo hương ổi. +tâm trạng nhà thơ ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng qua các từ bỗng, hình như. b) – Phân tích sự tinh tế của nhà thơ về những biến chuyển trong không gian lúc sang thu. + Phân tích đặc điểm, tính chất gợi cảm của hệ thống hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ. Biến chuyển trong không gian, lúc sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan và sự rung động thật tinh tế. + Hương ổi lan vào không gian, phả vào gió se. + Sang thu giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. + Dòng sông tròn một cách thanh thản gợi lên vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên ; những cánh chim bắt đầu vội vã buổi hoàng hôn. + Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua hình ảnh đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. + Sấm vẫn còn nhưng bớt những tiếng sấm to, bất ngờ mà mùa hạ thường có. Học sinh phân tích các hình ảnh, cảm nhận được sự tinh tế của nhà thơ thể hiện trong những từ ngữ diễn tả cảm giác trạng thái : Bỗng, phả vào, chùng chình, hình như, dềnh dàng, vắt nữa mình. . c) Phân tích hình ảnh, câu thơ đặc sắc mang hai tầng nghĩa : (2 câu cuối bài). Nghĩa thực : Hình tượng sấm, hàng cây lúc sang thu. Tính ẩn dụ : Sấm : Những vang vọng bất thường của ngoại cảnh cuộc dời. Hàng cây đứng tuổi : Con người từng trải – Khi con người đã từng trãi thì cũng vững vàng hơn trước, những tác động bất thường của ngoại cảnh của cuộc đời. d) – Học sinh cảm nhận được những câu thơ tiêu biểu nhất để làm rõ các ý trên. - ưu tiên bài viết có sự mở rộng liên hệ sáng tạo phù hợp, giàu cảm xúc. Bài làm mẫu Nếu mùa xuân là một hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ…, thì mùa thu lại là mùa quyến rũ lòng người bởi nét đẹp của buổi chiều với sắc lá vàng bay và hương vườn quen thuộc, nhẹ nhàng, thướt tha, đằm thắm… Cùng với mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài truyền thống của thơ ca. Thu đi qua lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ và là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người, là chất men để lòng người đắm say mê mải. Khác với các thi nhân khi viết về mùa thu thường là độ giữa thu hay cuối thu, nhà thơ Hữu Thỉnh góp một tiếng thu giao mùa. Truyền thống và sáng tạo là sự kết hợp hài hoà trong thơ Hữu Chỉnh. Cùng đi với “Sang thu”, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hữu Thỉnh sinh năm 1942, thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông là người viết nhiều, viết hay về quê hương và cuộc sống con người, đặc biệt là về mùa thu. Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra những biến chuyển rất nhẹ nhàng của đất trời khi mùa thu đến mà nếu như với những bộn bề công việc, người ta rất khó có thể nhận ra. Với bài thơ “Sang thu” (1977), Hữu Thỉnh đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bức tranh thu với những mới mẻ, sáng tạo, đầy ắp hơi thở của sự sống. Khổ thơ thứ nhất là những dự cảm mùa thu đã về : Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió seSương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Trong biết bao nhiêu hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình thảng thốt khi nhận ra cái làn hương ngây ngất ngọt ngào của trái ổi đầu mùa. Hương ổi thân thương qua như chính mùi vị của vườn, làng quê nơi đồng bằng bắc Bộ yêu thương hương ổi là tín hiệu đặc trưng của mùa thu. Phải chăng lúc này đây thu đã sang ? Nhưng tại sao sứ giả của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh lại là làn hương ngọt ngào của trái ổi đầu mùa mà không phải là hương hoa thiên lí như trong bài thơ Nguyễn Bính Mùi hoa thiên lý thoảng hương đưa (Chiều thu). Hay hương cốm trong bài thơ “Đất nước” Sáng mát trong như sáng năm x ưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa(Nguyễn Đình Thi) Hương ổi có nét gì đặc biệt đến thế, phải chăng mùi hương ấy là nét riêng của làng quê Bắc Bộ, phải chăng nó gọi về trong tâm trí tác giả bao nhiêu kỉ niệm êm đềm cùng bạn bè treo cây hái ổi của một thời tuổi trẻ đã qua ? Chẳng thế mà hương ổi không phải chỉ một lần xuất hiện trong thơ ông : Hẹn mùa thu ổi chín Đón mùa khô bước vào (Hương vườn) Từ bỗng như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về ? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ mới chợt nhận ta hương ổi : Phả vào trong gió seĐộng từ “phả” sử dụng trong câu thơ mang đầy ý nghĩa. Liệu có thể thay thế từ ngữ ấy bằng một số từ khác như “thoảng, toả, lan…” thôi cũng đã mang lại cho hương ổi một sức mạnh vô hình nào đó để có thể tràn ngập trong không gian, có sức lan toả về mặt cảm xúc. Động từ “Phả” nhờ nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã đem đến cho bức tranh giao mùa một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ. Hương ổi từ đó mà lan toả mãi trong không gian và rồi được cuốn trong gió se là cơn gió heo may khô lạnh đầu mùa. Gió se tràn về xua tan đi bao oi bức nóng nực của mùa hè, đem lại cho con người cảm giác thoải mái dễ chịu. Trong cái dư vị ngây ngất của trái ổi đầu mùa, nhà thơ nhận thấy : Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã vềHai câu thơ mang âm hưởng thật nhẹ nhàng. Màn sương qua từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hoá như vẻ duyên dáng của nàng thiếu nữ đôi mươi. Màn sương ấy hiện ra trong mờ mờ ảo ảo như sắc màu cổ tích khiến cho cảnh vật nơi làng quê ngõ xóm trở thành một thế giới thần kì tuyệt diệu. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh màn sương trong Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu : Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơNon xa khởi sự nhạt sương mờ … Và câu thơ Hình như thu đã về đã kết lại dòng xúc cảm bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả những tín hiệu ở trên cuối cùng rồi cũng đi đến một nghi vấn : thu đã về ? Từ “Hình như” diễn tả sự ngỡ ngàng thảng thốt, thu đến với đất trời thật rồi sao ? Từ điểm nhìn cận cảnh, cùng sự quan sát tinh tế, cảm nhận dấu hiệu thiên nhiên bằng khiếu giác (hương ổi), xúc giác (gió se) và thị giác (màn sương), nhà thơ Hữu Thỉnh đã chứng tỏ một hồn thơ tinh tế nhạy cảm khi cẩm nhận tiết giao mùa nơi làng quê thanh bình. Nếu như khổ thơ thứ nhất là cảm xúc đột ngột, ngỡ ngàng khi nhận ra thu đang về với đất trời thì đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã nhìn rộng hơn trong việc quan sát cảnh vật thiên nhiên : Sông đựoc lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nữa mình sang thu Từ khung cảnh chật hẹp nơi làng quê, nhà thơ đã dần hé mở thêm cho không gian cả chiều cao, chiều rộng, lẫn chiều sâu. Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên đất trời lúc sang thu. Đầu tiên, nhà thơ quan sát sự vật ở tầng thấp : Sông được lúc dềnh dàngChất liệu thực ra thật rõ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ngềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “đựơc lúc” diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt. Từ láy gợi hình “dềnh dàng” chỉ sự chuyển động chậm chạp. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế. Tuy nhiên, dòng sông trở nên chậm chạp hơn khi thu sang, không không đồng nghĩa với sự vật nào cũng như vậy. Ta hãy đọc câu thơ tiếp theo : Chim bắt đầu vội vã. Cón gió heo may lãnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng><vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý : cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời. Và ở hai câu thơ tiếp theo, không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới : Có đám mây mùa hạVắt nửa mình sang thu Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt ” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giửa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu. Trong bài thơ “Chiều sông thương”, Hữu Thỉnh cũng đã có những ý thơ tưong tự : Đám mây trên Việt Yên Rủ bóng về bố hạCùng viết về mùa thu ở làng quê, Nguyễn Khuyến – nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam cũng đã từng viết : Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo (Thu điếu) Có lẽ cũng như Nguyễn Khuyến, mùa thu và làn quê như một phần máu thịt trong con người Hữu Thỉnh. Ông đã viết rất nhiều về mùa thu : Đi suốt cả ngày thu Vẫn chưa về tới ngõ Dùng dằng câu quan họChiều tím bờ sông thưong (Chiều sông thương) Ta hãy đọc khổ thơ cuối cùng : Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng độ nóng, độ chói không còn gay gắt. Cơn mưa nhẹ hạt hơn so với trận mưa rào xối xả những ngày hè đã qua. Sấm bất thình lình nổi trận lôi đình, hàng cây như già dặn hơn. Đó là những gì mà nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận được về các hiện tượng thiên nhiên khi thu sang. Nhưng “nắng, mưa, sấm” làm sao có thế cân, đo ấy thế mà Hữu Thỉnh với các từ ngữ “Vẫn còn bao nhiêu, vơi, bớt” mang tính chất giảm nghĩa, nhà thơ đã biến chúng thành các vật có trọng lượng thực sự để đối chiếu so sánh với mùa hè. Từ sự hiện thực quan sát thiên nhiên ta có thể phát hiện ra đựoc một triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm. “Nắng, mưa, sấm” là những hình ảnh ẩn dụ cho sự khắc nghiệt và biến chuyển của cuộc đời, “hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải. Cả đoạn mang ý nghĩa : con người từng trải luôn vững vàng trước những biến đổi cuộc đời. Phải chăng nhà thơ đang gợi chúng ta nhớ về truyền thống cao đẹp của người dân Việt nam và những trải nghiệm ở đời qua thử thách, qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc, đó là hành trang để thế hệ trẻ hôm nay bước vào đời. Đọc Sang thu, ta không chỉ cảm nhận được những khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ mà còn thấy được tâm hồn tinh tế nhạy cảm, tấm lòng yêu thiên nhiên cùng biết bao học triết lí, kinh nghiệm sâu sa ; chúng ta ở đời đâu phải luôn chủ động và tự tin để có thể vượt qua mọi thử thách, sóng gió của cuộc đời Sang thu của Hữu Thỉnh không còn tính chất cổ điển, ước lệ tượng trưng như thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu mà sẽ sống mãi trong lòng người đọc với những nét mới mẻ sáng tạo của một tiếng thu đầy ắp hơi sự sống. |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||